Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay?

Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay là câu hỏi tự luận trong cuộc thi “Tìm hiểu pháp luật về phòng, chống tham nhũng”. Cuộc thi nhằm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2019-2021. Mời các bạn tham khảo để hoàn thành cuộc thi với kết quả cao nhất.

==>> Tải về bài Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay

Video chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay

Lưu ý: Đáp án chỉ mang tính chất tham khảo.

  • Đáp án thi Tìm hiểu pháp luật về phòng, chống tham nhũng 2021
  • Mẫu bìa bài dự thi tìm hiểu pháp luật về Phòng chống tham nhũng 2021

Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta từ năm 1945 đến nay?

1. Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng số 1

Tham nhũng không phải là hiện tượng mới xuất hiện. Nó ra đời và gắn liền với sự tồn tại, phát triển của nhà nước. Tham nhũng thực ra là một căn bệnh cố hữu của nhà nước. Mỗi khi đội ngũ cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất, quyền lực nhà nước bị tha hóa thì những kẻ tham nhũng trở thành thế lực thao túng đời sống xã hội. Cho đến nay, trên toàn thế giới, chưa phát hiện được quốc gia nào không có tham nhũng. Nghĩa là, nó đang hiện diện ở mọi quốc gia không phân biệt sắc tộc, văn hóa và chế độ xã hội. Tuy nhiên, tính chất, mức độ, loại hình tham nhũng ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực là rất khác nhau và phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và chế độ chính trị.

Tham nhũng dù tiếp cận dưới góc độ nào thì vẫn là hành vi bất hợp pháp của người có trọng trách trong bộ máy công quyền nhằm trục lợi cá nhân. Rõ ràng, chủ thể tham nhũng phải là người có chức, có quyền, có vị thế trong hệ thống quyền lực công; mục đích tham nhũng là nhằm mang lại lợi ích cho bản thân; hành vi tham nhũng là lợi dụng vị thế, quyền lực của mình để nhận hối lộ, đưa hối lộ, tham ô, chiếm đoạt hay sử dụng trái phép tài sản chung, gây ảnh hưởng, tạo áp lực, nhũng nhiễu, cửa quyền, bao che, cản trở, can thiệp…

Với mục đích và hành vi như thế, tham nhũng gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng cho mọi quốc gia không chỉ về kinh tế, đạo đức mà còn cả về chính trị, xã hội, an ninh; nhất là những nước nghèo. Vì vậy, nhiều quốc gia coi tham nhũng là một loại tội phạm nguy hiểm, một quốc nạn trực tiếp tàn phá sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, gây mất ổn định xã hội, đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu xây dựng chế độ mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm nhiều tới công tác phòng, chống tham nhũng và lãng phí. Vì vậy, trong nhiều thập niên, tệ tham nhũng chưa trở thành mối lo của xã hội ta. Tuy nhiên, thời gian gần đây, tham nhũng đang trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, các diễn đàn của Quốc hội, tại các kỳ đại hội Đảng các cấp, nhiều người đã chỉ rõ sự phổ biến của tệ tham nhũng và phê phán gay gắt tệ tham nhũng, gọi tham nhũng là quốc nạn.

Nhận thức đúng những nguy cơ dẫn đến làm mất niềm tin của nhân dân, bất ổn định xã hội và đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, kịp thời phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân, Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng vạch rõ: “Hiện nay, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta hết sức quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Phải tăng cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến cơ sở… Xử lý nghiêm minh theo pháp luật và Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên, công chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để tham nhũng”, và “Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng phải bị xử lý về trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; khen thưởng người phát hiện đúng những vụ tham nhũng”.

Triển khai những tư tưởng quan trọng của Đại hội IX của Đảng về chống tham nhũng, kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng vào ngày 29-11-2005, được Chủ tịch nước ký Lệnh và có hiệu lực từ ngày 1-6-2006. Luật Phòng, chống tham nhũng gồm 8 chương với 92 điều. Đây là bộ luật khá toàn diện, đầy đủ các khía cạnh pháp luật xung quanh vấn đề phòng, chống tham nhũng ở nước ta; đồng thời, đã thể hiện được những tư tưởng cơ bản và quyết tâm phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta.

Mặc dù, công tác phòng, chống tham nhũng đã có sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và sự quan tâm của toàn xã hội nhưng tình trạng tham nhũng vẫn chưa được ngăn chặn, không giảm mà có xu hướng tăng. Đặc biệt, một loạt vụ án tham nhũng lớn được công luận phát hiện chưa được điều tra và xét xử kịp thời… Trước thực trạng đó, dư luận trở nên hết sức bức xúc và hoài nghi. Nhiều ý kiến cho rằng, chống tham nhũng chủ yếu mang tính hình thức, trên giấy tờ, trong các cuộc họp, hô hào khẩu hiệu; xử lý tham nhũng thiếu nghiêm minh, bao che, chạy tội, nể nang, mang tính nội bộ, không công khai, không minh bạch, không bình đẳng; thậm chí, còn có “vùng cấm”, “vùng an toàn” cho “quan tham”…

Trước thực trạng cấp bách đó, Đại hội X (tháng 4-2006) của Đảng chỉ rõ: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta…

Sắp tới, phải thi hành một cách kiên quyết và đồng bộ hệ thống các biện pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí,… Khẩn trương và nghiêm chỉnh thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng…; bổ sung, sửa đổi Luật Khiếu nại và tố cáo. Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người tham nhũng bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; những người bao che cho tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ; có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực”. Đại hội X khẳng định: “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Các cấp ủy và tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục, có hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở, trong Đảng, Nhà nước và toàn xã hội”.

Cụ thể hóa những tư tưởng quan trọng của Đại hội X về phòng, chống tham nhũng, Hội nghị Trung ương 3 (khóa X) đã tập trung thảo luận và ra Nghị quyết Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hội nghị nhận định: “… cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”. Hội nghị chỉ rõ 4 nguyên nhân dẫn đến những yếu kém này; nêu rõ mục tiêu của phòng, chống tham nhũng là: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính”. Đồng thời, Hội nghị cũng nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo và 10 chủ trương, giải pháp lớn nhằm thúc đẩy cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí bước vào giai đoạn mới quyết liệt và triệt để hơn.

Hiện thực hóa những tư tưởng cơ bản của Đại hội X và triển khai Nghị quyết Trung ương 3 về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, ngày 28-8-2006, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 1039/2006/NQ-UBTVQHXI về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1009/2006 về nhân sự Ban Chỉ đạo. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Trưởng ban, Phó Thủ tướng là Phó trưởng ban và các ủy viên gồm: Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo (thường trực), Tổng Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Phó Ban Nội chính Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Tiếp đó, ngày 22-9-2006, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 107/2006, quy định xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong đơn vị do mình quản lý, phụ trách; ngày 5-10-2006, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1046/2006/NQ-UBTVQH XI phê chuẩn Quyết định số 121/QĐ-VKSNDTC/V9 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về việc thành lập các đơn vị mới của Viện, trong đó có Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng; ngày 31-10-2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1424/QĐ-TTg thành lập Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ; ngày 13-11-2006, Bộ trưởng Bộ Công an đã ký Quyết định số 1816 thành lập Cục Cảnh sát điều tra tội phạm tham nhũng; ngày 1-2-2007, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã công bố Quyết định số 13/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng…

Các tư tưởng chỉ đạo và sự triển khai công tác phòng, chống tham nhũng như nêu trên đã thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mặc dù công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng tình trạng tham nhũng vẫn mang tính phổ biến trong đời sống xã hội với rất nhiều biểu hiện khác nhau. Nhiều vụ án lớn gây chấn động xã hội không được xử lý nghiêm minh, dứt điểm đã gây nghi ngờ, mất lòng tin của nhân dân. Những vụ khiếu kiện đông người, kéo dài chủ yếu là do người dân bức xúc bởi sự không công khai, minh bạch và có dấu hiệu tham nhũng liên quan đến đất đai của một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương mà chỉ có rất ít người bị xử lý kỷ luật; thậm chí, có người còn được thuyên chuyển công tác với chức vụ và quyền lực cao hơn. Tệ tham nhũng đã có nhiều biến thái tinh vi khác thường, nó không chỉ dừng lại ở biến tài sản công thành tài sản tư, không chỉ đơn thuần ở nhận và đưa hối lộ mà còn ở sự tham nhũng cả địa vị, chức vụ, quyền lực, vị thế, cơ hội và liên kết tạo lập, bảo vệ lợi ích nhóm. Sự biến hóa và phổ biến của tham nhũng trong xã hội ta thời gian qua đã không chỉ thực sự gây bức xúc trong xã hội mà còn tạo ra nỗi bất bình và thất vọng của không ít người.

Nhận thức đúng tình trạng tham nhũng và thẳng thắn chỉ rõ thực trạng công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (tháng 1-2011), Đảng ta chỉ rõ: “Công tác phòng, chống tham nhũng chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”. Đại hội xác nhận tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng; đồng thời cảnh báo “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”.

2. Trình bày và phân tích các giai đoạn phát triển của pháp luật về phòng, chống tham nhũng số 2

– Hiến pháp luôn có vai trò rất quan trọng trong lịch sử phát triển của đất nước, của nhà nước và pháp luật.

– Hiến pháp là văn bản chính trị – pháp lý tổng kết một giai đoạn lịch sử nhất định và mở ra một giai đoạn phát triển mới của quốc gia, của dân tộc.

– Trong hệ thống pháp luật của quốc gia, Hiến pháp là luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất.

– Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 nhân dân Việt Nam đã đứng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại xóa bỏ chế độ thực dân – phong kiến, lập nên chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân non trẻ vừa ra đời đã phải tổ chức cho nhân dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.

Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là: Bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Nhận rõ tầm quan trọng của Hiến pháp, ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời vào ngày 3/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị sớm tổ chức tuyển cử và xây dựng Hiến pháp nhằm trước hết ban bố quyền dân chủ của nhân dân và hợp thức hóa chính 2 quyền do nhân dân lập nên sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Người nói: “Trước ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tháng Tám năm 1945 nhân dân Việt Nam đã đứng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại xóa bỏ chế độ thực dân – phong kiến, lập nên chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân non trẻ vừa ra đời đã phải tổ chức cho nhân dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.

Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là:

Bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ, chỉ trong một thời gian rất ngắn. Nhà nước Việt Nam đã ban hành 479 văn bản pháp luật, trong đó có 243 sắc lệnh, 172 nghị định, 46 thông tư và 12 văn bản khác. Ngày 19/11/1946 Quốc hội khoá I thông qua Hiến pháp năm 1946 – bản hiến pháp đầu tiên của Việt Nam được xây dựng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với Hiến pháp năm 1946, nhân dân ta đã có cơ sở hiến định để được hưởng các quyền tự do dân chủ, được tham gia tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 1946 đã củng cố nền độc lập vừa giành được, hợp thức hóa chính quyền mới. Đồng thời nó còn là cơ sở pháp lý để nhân dân ta tiến hành công cuộc kháng chiến, kiến quốc tiếp đó. Sau khi Hiến pháp năm 1946 ra đời, hệ thống pháp luật nước ta tuy trong hoàn cảnh chiến tranh vẫn có một bước phát triển mới. Các lĩnh vực luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự tiếp tục có sự phát triển. Và điều đặc biệt là trong hoàn cảnh thời chiến nhưng các lĩnh vực pháp luật kinh tế và pháp luật lao động vẫn được quan tâm phát triển.

Giai đoạn từ cuối năm 1954 đến trước khi ban hành Hiến pháp năm 1959.

Đây là thời kỳ miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và bước vào khôi phục kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa; chuẩn bị cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Trong thời kỳ này Nhà nước ta đã ban hành 8 đạo luật, 30 sắc lệnh, 70 nghị định, 36 nghị quyết, 60 quyết định, 920 thông tư, 97 chỉ thị và 74 văn bản có tính pháp quy khác. Ngày 31/12/1959 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới để ghi rõ những thắng lợi cách mạng to lớn đã giành được trong thời gian qua và nêu rõ mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta trong giai đoạn mới. Hiến pháp năm 1959 quy định chế độ chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta; quy định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, quyền và nghĩa vụ của công dân, nhằm phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng nước nhà, thống nhất và bảo vệ Tổ quốc. Giai đoạn 1960 – 1975 chủ yếu tập trung vào một vài lĩnh vực sau đây:

– Thứ nhất, ban hành các văn bản về bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội động nhân dân như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1960 và Pháp lệnh về thể lệ Bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp năm 1961

– Thứ hai, ban hành các luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước như Luật Tổ chức Quốc hội năm 1960, Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ năm 1960, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp năm 1962;

– Thứ ba, ban hành các luật về nghĩa vụ quân sự như Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1960 Luật sửa đổi và bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự (năm 1962 )và Luật sửa đổi và bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự (năm 1965).

– Thứ tư, ban hành các pháp lệnh về trừng trị một số tội như Pháp lệnh Trừng trị các tội phản cách mạng ngày 20/10/1967, Pháp lệnh Trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970.

Giai đoạn từ năm 1976 đến trước thời điểm ban hành Hiến pháp năm 1980

Tháng 7/1976 nước ta thực hiện sự thống nhất về mặt Nhà nước. Từ năm 1976 đến trước khi Hiến pháp năm 1980 được thông qua Nhà nước ta đã ban hành trên 800 văn bản pháp luật, trong đó có một luật, 3 pháp lệnh. 532 văn bản của Chính phủ, 241 văn bản của các Bộ và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ. Ngày 18/12/1980 Hiến pháp mới đã được Quốc hội thông qua. Năm 1986, tại Đại hội lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam chính thức tuyên bố việc đề ra và thực hiện đường lối đổi mới ở Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới cần sửa đổi Hiến pháp năm 1980. Trong bối cảnh đó Hiến pháp năm 1992 đã ra đời. Cũng như các hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1992 quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.

Tuy nhiên, trong nội dung của bản Hiến pháp này có nhiều điểm mới. Hiến pháp năm 1992 khẳng định: Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tôn trọng quyền con người, quyền công dân; Nhà nước ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước đã được Hiến pháp năm 1992 điều chỉnh theo hướng hợp lý hơn, thực quyền hơn. Một thành tựu nổi bật trong hoạt động lập pháp trong giai đoạn này là việc thông qua Bộ luật Dân sự đầu tiên của nước ta dưới chính thể mới vào năm 1995. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ tương ứng với mỗi thời kỳ phát triển của cách mạng Việt Nam, Nhà nước Việt Nam. Trong mỗi thời kỳ đó, sự phát triển của pháp luật bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như hoàn cảnh kinh tế – xã hội, sự nhận thức của Đảng và Nhà nước về vai trò của pháp luật, sự hiện diện của một đội ngũ chuyên gia pháp luật, nhu cầu hội nhập và hợp tác quốc tế, những giai đoạn pháp luật có sự phát triển nhanh chóng như giai đoạn 1945 – 1950 và giai đoạn hiện nay là do các nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước nhận thấy rõ vai trò của pháp luật trong việc quản lý nhà nước, quản lý xã, hội; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã tập hợp được một đội ngũ chuyên gia pháp lý có trình độ để xây dựng các văn bản pháp luật.

Những năm 45 – 46 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước ta quan tâm xây dựng hiến pháp, pháp luật là để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho nước Việt Nam non trẻ có tiếng nói công khai, hợp pháp trên trường quốc tế. Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta quan tâm và coi trọng hoạt động xây dựng pháp luật là để tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế vì lợi ích của quốc gia và toàn thể nhân dân Việt Nam. trong mọi thời kỳ hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước ta đều quan tâm đặc biệt đến việc tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Trong những năm 1945-1950 nước ta có được đội ngũ chuyên gia được đào tạo trong chế độ cũ nhưng có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc được cách mạng giao. Hiện nay, chúng ta có được một đội ngũ chuyên gia được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Riêng trong những năm trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, Nhà nước ta ít quan tâm đến việc đào tạo các chuyên gia pháp lý và điều đó đã ảnh hưởng rất tiêu cực đến hoạt động xây dựng pháp luật trong thời ký đó cũng như sau này, những năm nước ta theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp (1960 – 1985), pháp luật Việt Nam rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Ngoài ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung thời kỳ đó pháp luật nước ta còn chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh thời chiến. Nhiều quan hệ xã trong thời gian đó bị hành chính hoá cho nên không cần hoặc ít cần đến sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác, khi đó vai trò của đường lối, chính sách của Đảng, của các cơ quan tuyên huấn, tuyên truyền là rất quan trọng trong việc quản lý xã hội. Nhiều phong trào của các tầng lớp nhân dân được khơi dậy và cổ vũ có tác dụng vô cùng to lớn trong đời sống xã hội.

Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường theo đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, hệ thống pháp luật Việt Nam có sự phát triển rất nhanh chóng cả về mặt số lượng và chất lượng. Hệ thống pháp luật Việt Nam hầu như đã bao quát được toàn bộ các quan hệ xã hội, các hành vi xã hội cần sự điều chỉnh của pháp luật từ tổ chức quyền lực nhà nước, các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đến quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại, sở hữu trí tuệ, tài chính, ngân hàng, đất đai, môi trường và các quan hệ liên quan đến việc giải quyết các vấn đề xã hội. Có thể thấy, hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng phát triển cân đối hơn, hài hoà hơn và đồng bộ hơn.

Mời các bạn tham khảo thêm đáp án các cuộc thi khác trên chuyên mục Tài liệu của Mobitool VN.

3

No Responses

Write a response